Bột sắn dây

Natural Remedies 05:33 Add Comment

Bột sắn dây Lam Hồng


  Hỏi : Tôi là một độc giả trung thành của Báo suốt nhiều năm qua. Tôi rất thích tờ báo của mình vì nó mang đến cho tôi rất nhiều điều bổ ích trong cuộc sống. Hôm nay tôi có 1 câu hỏi muốn nhờ các chuyên gia tư vấn như sau: Nhân dân miền Bắc thường ca ngợi uống bột sắn dây rất mát nhất là mùa nắng (loại sắn dây leo, nghiền củ lọc lấy bột). Vậy xin hỏi tác dụng của bột sắn và cách sử dụng nên uống pha sống, nấu chín hay nửa sống nửa chín và liệu lượng dùng hàng ngày là bao nhiêu? Dùng quá liều lượng đó có hại như thế nào? Rất mong Quý tòa soạn xem xét giải đáp.
                                                                       Độc giả: Phạm Thị Chung


                                                                                   Biên Hòa - Đồng Nai


     Đáp : Theo dược học cổ truyền, sắn dây vị ngọt, tính mát, có công dụng giải cơ thoái nhiệt, phát biểu thấu chẩn, sinh tân chỉ khát, thăng dương chỉ tả, thường được dùng để chữa các chứng bệnh như sốt do ngoại cảm, đau cổ gáy, đau đầu, sởi, sốt cao khát nước, đái tháo đường, tiêu chảy, kiết lỵ, huyết áp cao, thiếu máu cơ tim, chảy máu cam, nôn ra máu, trĩ xuất huyết, tai ù tai điếc...


     Nghiên cứu hiện đại cho thấy, sắn dây có tác dụng dược lý khá phong phú như hạ nhiệt, cải thiện lưu lượng tuần hoàn não và động mạch vành tim, làm giảm đường huyết, điều hòa rối loạn lipid máu, hạ huyết áp, chống loạn nhịp tim, giải độc, bảo hộ tế bào gan, chống lão hóa và ung thư, dự phòng tích cực tình trạng nhiễm virut đường hô hấp, nâng cao năng lực chịu đựng của cơ thể trong tình trạng thiếu ôxy...


     Sắn dây có thể dùng theo cách uống sống hoặc nấu chín, tuy nhiên sắn dây sống có công dụng hạ nhiệt tốt hơn sắn dây chín. Có nhiều cách chế biến nước sắn dây giải khát, có thể kể ra vài phương thức chính sau đây :


- Củ sắn dây thái phiến, phơi hoặc sấy khô, đựng trong lọ kín để dùng dần, mỗi ngày lấy 20 - 30g hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Khi uống, có thể pha thêm một chút đường phèn. Cũng có thể cho vào nồi sắc lấy nước uống.


- Bột sắn dây 3 thìa cà phê, đường trắng vừa đủ, hai thứ đem hòa với nước sôi để nguội trong cốc, chế thêm một chút nước cốt chanh hoặc quất (cũng có thể cho quất hoặc chanh thái lát), quấy đều rồi uống. Tùy theo sở thích có thể đem ướp lạnh hoặc cho thêm vài viên nước đá.


- Củ sắn dây thái phiến và câu đằng lượng bằng nhau, hai thứ đem tán vụn, phơi hoặc sấy khô, trôn đều rồi đựng trong lọ kín để dùng dần. Mỗi ngày lấy 30g đựng trong túi vải buộc kín miệng rồi đem hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Đây là loại nước giải khát rất tốt cho những người bị cao huyết áp, đau đầu, nhiệt miệng, cổ vai đau nhức.


- Củ sắn dây 200g, đan sâm 180g, bạch linh 90g, cam thảo 60g. Tất cả sấy khô tán vụn, đựng trong lọ kín để dùng dần. Mỗi ngày lấy 40g hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 20 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Đây là thứ nước giải khát cực tốt cho những người mắc các bệnh tim mạch. Tuy nhiên, phụ nữ có thai không được dùng.


Ở ta hiện nay có hai loại sắn dây: sắn dây ta và sắn dây tầu (có nguồn gốc từ Trung Quốc). Sắn dây tầu cho lượng bột nhiều hơn nhưng chất lượng giải nhiệt và mùi thơm không bằng sắn ta. Hơn nữa, vì lợi nhuận, gian thương thường hay trộn bột sắn thường với bột sắn dây để kiếm lời. Bởi vậy, khi mua người tiêu dùng cần thận trọng, tốt nhất là nên tự mình mua củ sắn dây tươi về tự chế biến hoặc thuê các cơ sở có uy tín và đảm bảo vệ sinh. Dân gian thường ướp bột sắn dây với hoa bưởi hoặc hoa nhài để làm tăng thêm sức hấp dẫn của loại nước giải khát độc đáo này. Theo nghiên cứu hiện đại, sắn dây có độc tính rất thấp, không có tác dụng gây đột biến, bởi vậy nếu dùng quá liều lượng nêu trên cũng không có tác dụng bất lợi nào.


                                                                      ThS. BS Hoàng Khánh Toàn
(Khoa Đông y, bệnh viện Trung ương Quân Đội 108. 36B ngõ 28, phố Trần Điền, Định Công, Hoàng Mai, Hà Nội)

Phần 2: LOẢNG XƯƠNG

Natural Remedies 18:49 Add Comment
Bài viết của BS ThS Hàn Tiểu Sảo

Chẩn đoán loãng xương (Osteoporosis) 

khi mật độ xương theo chỉ số T-score được đo bằng phương pháp DEXA ≤ - 2,5  (theo Tổ chức Y tế thế giới).

+ Xương bình thường: T score  ≥ – 1SD
+ Thiếu xương (Osteopenia): – 2,5SD  <  T score < – 1SD
+ Loãng xương (Osteoporosis): T score ≤ - 2,5SD
+ Loãng xương nặng: T score ≤ - 2,5 SD kèm tiền sử/ hiện tại có gẫy xương 
(Đo mật độ xương tại cột sống thắt lưng và cổ xương đùi theo phương pháp DXA)
Loảng xương
T-Score = (BMD – mBMD) / SD    Trong đó: 

BMD: mật độ xương của đối tượng khảo sát

mBMD: mật độ xương trung bình (cũng là BMD max) của quần thể dân số tuổi từ 20-30 tuổi.

SD: độ lệch chuẩn của BMD trung bình của quần thể dân số trên.

Đo BMD cổ xương đùi của phụ nữ VN tuổi 20- 30 bằng phương pháp DXA: mBMD= 0.94 g/cm2, SD=0.11 g/cm2.

 Ví dụ: một phụ nữ 60 tuổi, có BMD tại cổ xương đùi là 0.65 g/cm2 =>T-Score của bà ta là: (0.65-0.94)/ 0.11 = -2.63.

Có nghĩa là BMD phụ nữ này thấp hơn BMD lúc 20-30 tuổi 2.63 lần SD

 T-Score có ý nghĩa so sánh BMD hiện tại với BMD tối đa.

Z-Score = (BMD- tBMD)/ SD      Trong đó:

BMD: mật độ xương của đối tương khảo sát

tBMD: BMD trung bình của quần thể có cùng độ tuổi với đối tượng.

SD: độ lệch chuẩn

Ví dụ: quần thể dân số nữ 65 tuổi có tBMD = 0.81g/cm2  , SD=0.11g/cm2
Một phụ nữ A  65 tuổi có BMD cổ xương đùi là 0.86 g/cm2  .
=> Z-Score = (0.86 - 0.81)/ 0.11= +0.45

 BMD của bà A cao hơn BMD của các phụ nữ khác có cùng độ tuổi 0.45 SD

Định nghĩa

Loãng xương  là sự rối loạn chuyển hoá của bộ xương gây tổn thương sức mạnh của xương đưa đến tăng nguy cơ gãy xương, là hậu quả của việc suy giảm các khung protein và lượng calci gắn với các khung này, do giảm số lượng tổ chức xương, giảm trọng lượng của một đơn vị thể tích.

Sức mạnh của xương bao gồm sự toàn vẹn cả về khối lượng và chất lượng của xương.

Khối lượng xương được biểu hiện bằng: 
Mật đô khoáng chất của xương (Bone Mineral Density: BMD) 
Khối lượng xương (Bone Mass Content: BMC) 

Chất lượng xương phụ thuộc vào: 
Thể tích xương 
Vi cấu trúc của xương (Thành phần chất nền và chất khoáng của xương) 
Chu chuyển xương (Tình trạng tổn thương vi cấu trúc xương, tình hình sửa chữa cấu trúc của xương)

Phân loại

Loãng xương type 1 là loãng xương sau mãn kinh, liên quan với giảm nồng độ estrogen và tác động trên bè xương hơn là vỏ xương. Loãng xương type 2 là  loãng xương do tuổi già, là hậu quả của sự lão hóa và thường được tăng cường bởi tình trạng thiếu canxi và vitamin D,  ảnh hưởng đến cả vỏ xương và bè xương. Loãng xương thứ phát liên quan đến một số bệnh hoặc việc sử dụng một số loại thuốc. 

Nguyên nhân loãng xương

Chế độ ăn ít canxi và / hoặc vitamin D góp phần giảm sút mật độ xương, mất xương sớm và gia tăng nguy cơ gãy xương. Do calci trong thức ăn không đủ để duy trì nồng độ calci cần thiết trong máu, khi đó tế bào chính của tuyến cận giáp tiết ra Parathyroidhormon (PTH) để điều calci trong xương chuyển ra bổ sung cho máu nhằm duy trì sự ổn định nồng độ calci trong máu. Tình trạng này kéo dài làm cho kết cấu xương bị thưa loãng. Việc sản xuất PTH của tuyến cận giáp được điều khiển bởi tuyến yên & cơ chế phản hồi từ nồng độ Calcium trong máu. 

Hoạt động thể chất: Những người không hoạt động thể chất có nguy cơ loãng xương hơn.

Thuốc lá và rượu: thuốc lá góp phần làm yếu xương, nhiều hơn hai ly rượu mỗi ngày làm tăng nguy cơ loãng xương (do rượu cản trở khả năng của cơ thể hấp thụ canxi).

Giới tính, kích thước và độ tuổi: 
* Nguy cơ loãng xương nếu là phụ nữ, vì phụ nữ có mô xương ít hơn so với nam giới. 

* Nếu cơ thể rất gầy (BMI ≤ 19) hoặc có khung cơ thể nhỏ: Kém phát triển thể chất từ khi còn nhỏ, đặc biệt là còi xương, suy dinh dưỡng, chế độ ăn thiếu protein, thiếu canxi hoặc tỷ lệ canxi/phospho trong chế độ ăn không hợp lý, thiếu vitamin D hoặc cơ thể không hấp thu được vitamin D... nên khối lượng khoáng chất đỉnh của xương ở tuổi trưởng thành thấp, đây được coi là yếu tố nguy cơ quan trọng nhất của bệnh Loãng xương. 

* Xương trở nên mỏng hơn và yếu hơn khi già đi. Đặc điểm của loãng xương tuổi già là tăng quá trình huỷ xương & giảm quá trình tạo xương, gặp ở cả nam và nữ vì các nguyên nhân:
              - Các Osteoblast bị lão hoá. Hoạt động của nguyên bào xương giảm khi lớn tuổi.
              - Sự hấp thu calci ở ruột bị  hạn chế do chức năng dạ dày, đường ruột, gan, thận suy yếu…
                Ít hoạt động ngoài trời, thiếu ánh nắng, thiếu vitamin D.
             - Sự suy giảm tất yếu các hormon sinh dục (Nữ và Nam).

Chủng tộc và lịch sử gia đình: Người da trắng hoặc người gốc Á Châu có nguy cơ loãng xương hơn các chủng tộc khác. Ngoài ra, có cha mẹ hoặc anh chị em ruột bị loãng xương thì có nguy cơ cao hơn - đặc biệt là lịch sử gia đình có người bị gãy xương.

Mức độ hormone: 
* Quá nhiều hormon tuyến giáp có thể gây mất xương do tăng bài tiết canxi và phốt pho trong nước tiểu và phân. 

* Ở phụ nữ, mất xương tăng đáng kể ở thời kỳ mãn kinh do giảm nồng độ estrogen làm tăng nhanh tốc độ quá trình chuyển calci từ xương vào máu (Tăng quá trình huỷ xương trong khi quá trình tạo xương bình thường). Thiếu hụt Estrogen là yếu tố chính dẫn đến giai đoạn nhanh chóng mất xương, nhưng các yếu tố khác như giảm mức độ IGF-1 và PTH cao góp phần vào giai đoạn mất xương chậm sau mãn kinh. Loãng xương sau mãn kinh làm nặng hơn tình trạng loãng xương do tuổi ở phụ nữ.

Mất xương cột sống thường là 3% / năm trong khoảng 5 năm sau khi mãn kinh. Sau đó, tốc độ chậm hơn (khoảng 0,5% / năm), ảnh hưởng đến cả vỏ xương và bè xương. 

* Ở nam giới, nồng độ testosterone thấp có thể gây ra mất khối lượng xương. Những thay đổi trong mức độ IGF-1 và PTH cùng với sự suy giảm estrogen sinh học cũng đóng một vai trò trong việc mất xương ở nam giới. 

Ăn quá nhiều protein, natri, và caffeine. Những người bị chứng biếng ăn hoặc ăn vô độ có nguy cơ mất xương. Dinh dưỡng thiếu làm thiếu các yếu tố vi lượng như calci, phospho, magne, albumin dạng keo, acid amin góp phần gây loãng xương. 

Nhiều bệnh gây nguy cơ loãng xương bao gồm: cường cận giáp, tiểu đường type 1, suy thượng thận, hội chứng Cushing, chán ăn tâm thần, hội chứng kém hấp thu, và một số bệnh ác tính. Cơ chế góp phần vào sự mất xương là khác biệt cho từng bệnh. Nhiều loại thuốc cũng có tác dụng bất lợi trên xương. Sử dụng kéo dài của glucocorticoid là nguyên nhân phổ biến nhất của loãng xương do thuốc. Các loại thuốc khác bao gồm heparin, thuốc ức chế aromatase, barbiturates, các thuốc đồng vận hormon gonadotropin-releasing, cyclosporine, tacrolimus, depot medroxyprogesterone, lithium, hóa trị liệu ung thư, thuốc chống co giật.

Triệu chứng

Loãng xương là bệnh diễn biến âm thầm không có triệu chứng lâm sàng đặc trưng, chỉ biểu hiện khi đã có biến chứng. Những biểu hiện lâm sàng chỉ xuất hiện khi trọng lượng xương giảm > 30%. Sự xuất hiện từ từ tự nhiên hoặc sau một chấn thương, đôi khi tình cờ chụp X quang mà thấy.

Đau và hạn chế vận động cột sống, cánh chậu, bả vai.

Tái phát từng đợt, thường sau khi vận động nhiều, chấn thương nhẹ, thay đổi thời tiết.

Cột sống giảm dần chiều cao, biến dạng đường cong sinh lý dẫn đến gù vùng lưng hay thắt lưng, chiều cao cơ thể giảm đi rõ rệt so với khi còn trẻ tuổi. Xương dễ gãy, đôi khi chỉ một chấn thương nhẹ cũng làm gãy cổ xương đùi, gãy đầu dưới xương quay, gãy lún đốt sống.

Loảng xương
Loảng xương
Hai phần ba gãy xương cột sống do loãng xương không đau. Nếu có, cơn đau cấp tính sau ngã hoặc chấn thương nhẹ, đau nhói hay ê ẩm. Điểm đau rõ ở cột sống, đau khi ấn, một số trường hợp đau lan tới vùng bụng. Đau thường kèm theo co thắt cơ quanh đốt sống, cử động làm tăng đau, giảm khi nằm ngửa. Cơn đau cấp thường tự khỏi sau 4-6 tuần; trong bối cảnh nhiều xương gãy với gù cột sống nặng, cơn đau có thể trở thành mãn tính.


Triệu chứng đau của  gãy xương hông: Đau ở háng, mông, trước đùi, giữa đùi, và / hoặc giữa đầu gối do mang nặng, hạn chế cử động háng.

(còn tiếp)

Nguồn: Blog BS Hồ Hải

TÓM TẮT CÔNG DỤNG CỦA SẮN DÂY

Natural Remedies 10:15 Add Comment

 (Công đoạn vào hộp sắn dây)


Bột sắn dây có những công dụng đáng chú ý như sau:

  • Thanh nhiệt, hạ sốt
  • Trị táo bón
  •  Tăng vòng 1, cân bằng nội tiết tố
  •  Giải độc bia, rượu
  •  Chống lão hóa
  •  Giải ngộ độc thực phẩm
  • Trị cảm nắng
  •  Phụ nữ có thai uống để dễ sinh em bé
  • Phòng, chống loảng xương
  • Tăng sinh lực cho cơ thể
  • Sinh tinh dịch
  • Tăng trí nhớ
  • Làm đẹp da
  • Trị mụn, tàn nhang, nám da, v.v..

LOÃNG XƯƠNG (OSTEOPOROSIS): Phần 1: ĐẠI CƯƠNG HỆ XƯƠNG

Natural Remedies 09:38 Add Comment
Bài viết của BS ThS Hàn Tiểu Sảo

Hệ Xương

Chúng ta sinh ra với khoảng 300 xương mềm. Suốt thời thơ ấu và niên thiếu, sụn phát triển và dần được thay thế bởi xương cứng. Một số xương sau này hợp nhất với nhau, do đó bộ xương người lớn có 206 xương. 
Xương đóng nhiều vai trò trong cơ thể : 

Khung nâng đỡ cơ thể.
Bảo vệ các tạng.
Chỗ bám của cơ để chúng ta có thể di chuyển, vận động
Môi trường cho tủy (nơi các tế bào máu được sản xuất).
Khu vực lưu trữ các chất khoáng (như canxi).

Dựa theo hình dạng, xương được phân thành 4 loại:


Xương dẹt (flat bones): bề mặt mỏng và rộng, có chức năng bảo vệ, ví dụ các tấm hộp sọ, xương bả vai, xương ức, xương sườn.

Xương dài (long bones): có trục hình ống và mặt khớp ở mỗi đầu, ví dụ xương đùi, xương cánh tay, xương chày.

Xương ngắn (short bones): có trục hình ống và mặt khớp ở mỗi đầu giống xương dài nhưng nhỏ hơn nhiều, ví dụ xương đòn, xương bàn và đốt ngón tay chân.

Xương bất định (irregular bones): có thể thay đổi hình dạng (dài, ngắn, phẳng), ví dụ đốt sống, cổ tay cổ chân, xương bánh chè.

Ngoài ra, còn có các xương vừng (Sasemoid bones) nhỏ, phát triển trong các gân cơ nằm quanh khớp xương đề bảo vệ và tăng cường tác động cơ học của gân cơ, sự vững chắc của khớp.

Cấu trúc xương từ ngoài vào trong:


Cấu Trúc xương

Xương được bao phủ bởi một màng mỏng gọi là màng xương (Periosteum: ngoại cốt mạc): là một màng liên kết dai, đính chặt vào xương, gồm 2 lá: lá ngoài chứa các nhánh tận cùng của thần kinh cảm giác nên chấn thương xương thì đau đớn bởi vì các dây thần kinh đau cảm ứng nằm chủ yếu ở màng xương, lá trong chứa các tạo cốt bào và nhiều mạch máu. 

Các mặt khớp không có màng xương.

Vỏ cứng gọi là vỏ xương (Compact bone): là mô xương đặc, rắn chắc. Gồm chủ yếu protein (như collagen) và hydroxyapatite (trong đó bao gồm chủ yếu là canxi và các khoáng chất khác). Hydroxyapatite chịu trách nhiệm về sức mạnh và mật độ của xương. 

Lớp xốp bên trong (Cancellous bone): do nhiều bè xương (trabecular) đan chéo nhau, tạo nên những hốc nhỏ. Mạng lưới các bè xương nhẹ hơn và ít dày đặc hơn so với phần bên ngoài cứng nhưng vẫn đóng góp đáng kể vào sức mạnh của xương. Việc giảm số lượng hoặc chất lượng của bè xương làm tăng nguy cơ gãy xương.

Tủy xương (Bone marrow) là mô lấp đầy khoảng trống trong bè xương. Tủy xương gồm tủy đỏ là nơi tạo huyết chứa những tế bào chuyên biệt (bao gồm cả tế bào gốc) sản xuất các tế bào máu, tủy vàng chứa nhiều tế bào mỡ có trong các ống tủy (Medullary cavity) của thân xương dài. 

Xương được cấu tạo bởi:

Nguyên bào tạo xương (osteoblasts) và tế bào tạo xương (osteocytes) tham gia vào việc tạo xương & khoáng hóa mô xương. 

Tế bào hủy xương (hủy cốt bào: osteoclasts): là các tế bào chịu trách nhiệm cho sự hủy xương. 
Chất nền collagen và noncollagenous protein (osteoid).

Muối khoáng vô cơ lắng đọng trong chất nền. Độ cứng của xương là do sự hiện diện của muối khoáng trong chất nền, là một phức hợp tinh thể canxi và phosphate (hydroxyapatite). Xương bị vôi hóa có chứa khoảng 25% chất nền hữu cơ (2-5% trong số đó là các tế bào), 5% nước và 70% khoáng vô cơ (hydroxyapatite).

Cấu trúc xương điều chỉnh trong suốt cuộc đời để đáp ứng với hoạt động và sức nặng cơ học. Xương được tu sửa liên tục. Trong quá trình này, xương mới được tạo và xương cũ bị phá hủy, mô xương cũ được dần  thay thế bởi mô xương mới.
Mỗi xương trong cơ thể được hoàn toàn đổi mới mỗi 10 năm. Khi còn trẻ, quá trình tạo xương mới nhanh hơn sự phá hủy xương cũ, nên xương tăng khối lượng. Hầu hết mọi người đạt được đỉnh cao khối lượng xương ở tuổi 30. Sau đó, tu sửa xương vẫn tiếp tục, nhưng sự mất xương nhiều hơn sự tạo xương. Loãng xương là hậu quả của sự phá vỡ cân bằng bình thường của 2 quá trình tạo xương và hủy xương: sự mất xương vượt quá sự hình thành xương, dẫn đến khối lượng xương thấp, bất thường vi kiến trúc xương, tăng nguy cơ gãy xương.
Nguồn: Blog BS Hồ Hải